Dã Thị Nhẫn Tâm 9:22:00 AM A+ A- Print Email

Tôi từng tiếp một khách hàng nữ ở miền Tây lên TP.HCM tìm luật sư để hỏi cách đòi số tiền 200 triệu đồng mà chồng chị đem cho “bồ nhí”. Chuyện nhà chị có lẽ không hiếm gặp ở thời buổi này.


Bỏ lỗi chứ không bỏ
tiền

Bỏ lỗi chứ không bỏ tiền
Chồng chị là chủ một vựa thu mua tôm có tiếng ở miền Tây. Một đời vợ chồng lam lũ cùng nhau tạo dựng cơ nghiệp, nuôi dạy hai con vào đến đại học, nhưng đùng một phát người chồng trúng tiếng sét ái tình với cô tiếp viên quán nhậu. Biết chuyện, chị làm dữ đủ điều, thậm chí còn theo dõi bắt quả tang chồng đang ôm ấp người con gái đó trong quán nhậu. Nghĩ đàn ông thì người nào cũng có những phút yếu lòng nên khi nghe chồng xuống nước xin tha thứ, chị nuốt giận bỏ qua.
Tuy nhiên khoảng giữa tháng 9/2012, qua một người quen chị mới biết cô bồ đó từng được chồng chị cho 200 triệu đồng mua đất cất nhà. Vừa ghen vừa tiếc của nên chị quyết tìm đến cô gái hỏi cho ra lẽ. Chẳng những không chối mà cô gái đó còn tự đắc hỏi ngược: “Rồi bà làm được gì nhau? Chồng bà cho tôi chứ có phải tôi trộm cắp đâu mà kêu trả lại…” Cho rằng tiền chồng cho gái là tài sản chung của vợ chồng, chị quyết tâm lên TP.HCM tìm luật sư kiện đòi lại cho bằng được.
Có đòi được không?
“Được” hay “không” tuỳ thuộc những chứng cứ mà người vợ xuất trình cho toà khi khởi kiện. Nếu hôn nhân của vợ chồng hợp pháp và có bằng chứng chồng cho “bồ nhí” số tiền đó thì khả năng thắng kiện không nhỏ. Bởi số tiền mà người chồng đem cho trong trường hợp này là tài sản chung của vợ chồng, nhưng đã không được sự bàn bạc, thoả thuận của cả hai.
Khoản 1, điều 27 luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung...” Trong đó, thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng có thể là trúng thưởng xổ số, tiền thưởng, tiền trợ cấp…
Theo Nghị định 70/2001/NĐ-CP, đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật quy định phải tuân theo hình thức nhất định thì sự thoả thuận của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực...) Nếu pháp luật không quy định nhưng giao dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch đó phải có sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng. Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung mà không có sự đồng ý của một bên, thì bên đó có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Theo SGTT

Post a Comment

Chú ý:
- Nhận xét nên viết tiếng việt có dấu.
- Cảm ơn bạn đã đọc bài viết tại www.hannavn.com